THỨ SÁU 25/7/2025 11:18
Hỏi:

Doanh nghiệp chúng tôi đang triển khai dự án đầu tư có sử dụng đất tại một tỉnh. Dự án đã được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư tháng 3/2024, áp dụng Luật Đất đai 2013; đến tháng 8/2024 Luật Đất đai 2024 có hiệu lực, do đó đến nay chưa có Quyết định giao đất/cho thuê đất từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Theo Khoản 5 Điều 26 Nghị định 31/2021/NĐ-CP, thời điểm thực hiện ký quỹ được quy định: “sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư đến trước thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất...”.

Tuy nhiên, Sở Tài chính địa phương lại yêu cầu doanh nghiệp phải ký quỹ theo mốc tiến độ ghi trong Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, mặc dù thực tế chưa có xác định được thời gian có quyết định giao đất.

Theo ý kiến của Sở Tài chính địa phương, nếu không thực hiện ký quỹ sẽ thu hồi Quyết định chấp thuận chủ trương đồng thời chấm dứt hoạt động dự án theo điểm đ, Khoản 2, Điều 48 Luật Đầu tư khi chưa tham chiếu theo Khoản 5, Điều 26, Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ

Tôi muốn hỏi, việc yêu cầu ký quỹ như vậy có đúng quy định pháp luật không? Việc xác định thời điểm ký quỹ nên căn cứ vào tiến độ ghi trong văn bản chấp thuận hay vào thời điểm thực tế quyết định giao đất? Việc thu hồi chủ trương như nêu trên đã đúng chưa?
27/08/2025
Trả lời:

Bộ Tài chính nhận được câu hỏi của ông Mai Ngọc Hải về bảo đảm thực hiện dự án đầu tư, chấm dứt hoạt động dự án trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm dự án. Trên cơ sở thông tin chung tại câu hỏi mã số 130625-18, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:

1. Quy định về thời điểm thực hiện thủ tục bảo đảm dự án - Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 26 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, thời điểm thực hiện bảo đảm dự án như sau: “Nhà đầu tư thực hiện ký quỹ hoặc nộp chứng thư bảo lãnh của tổ chức tín dụng về nghĩa vụ ký quỹ sau khi được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư hoặc Quyết định chấp thuận nhà đầu tư hoặc Quyết định phê duyệt kết quả trúng đấu giá và trước khi tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (đối với trường hợp nhà đầu tư không tạm ứng tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư) hoặc trước thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (đối với trường hợp nhà đầu tư đã tạm ứng tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hoặc trường hợp nhà đầu tư được lựa chọn để thực hiện dự án thông qua đấu giá quyền sử dụng đất và được Nhà nước cho thuê đất, trả tiền thuê đất hằng năm)”. Căn cứ quy định nêu trên, việc bảo đảm dự án được thực hiện trong thời gian từ “sau khi được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư” đến “trước khi tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt” hoặc “trước thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất”. - Theo quy định tai khoản 2 Điều 122 Luật Đất đai, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư phải đáp ứng các điều kiện sau đây: “a) Ký quỹ hoặc các hình thức bảo đảm khác theo quy định của pháp luật về đầu tư…”.

- Theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Luật Đầu tư, nhà đầu tư phải tuân thủ quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư, bao gồm cam kết về tiến độ thực hiện dự án đầu tư (tiến độ góp vốn và huy động các nguồn vốn; tiến độ thực hiện các mục tiêu hoạt động chủ yếu của dự án đầu tư, tiến độ xây dựng cơ bản và đưa công trình vào hoạt động; trường hợp dự án đầu tư chia thành từng giai đoạn thì phải quy định tiến độ thực hiện từng giai đoạn...) được quy định tại khoản 8 Điều 40 Luật Đầu tư, Khoản 7 Điều 32 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP. Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu, điều kiện và các nội dung theo quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư. Do đó, đề nghị nghiên cứu, thực hiện theo các quy định nêu trên. 2. Quy định về chấm dứt hoạt động dự án đầu tư Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 48 Luật Đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư chấm dứt hoặc chấm dứt một phần hoạt động của dự án đầu tư trong trường hợp: “Nhà đầu tư không ký quỹ hoặc không có bảo lãnh nghĩa vụ ký quỹ theo quy định của pháp luật đối với dự án đầu tư thuộc diện bảo đảm thực hiện dự án đầu tư”. Như vậy, dự án đầu tư bị chấm dứt hoặc chấm dứt một phần hoạt động trong trường hợp dự án thuộc diện bảo đảm thực hiện nhưng nhà đầu tư không ký quỹ hoặc không có bảo lãnh nghĩa vụ ký quỹ theo quy định tại Điều 43 Luật Đầu tư và Điều 25, Điều 26 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP.

Gửi phản hồi: