Trên cơ sở bài học rút ra từ kinh nghiệm quốc tế đã đề cập tại các số trước, căn cứ vào thực trạng phát triển bảo hiểm vi mô tại Việt Nam trong thời gian qua, kết quả khảo sát thu thập ý kiến của các doanh nghiệp nhân thọ và phi nhân thọ đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam về tính khả thi và các nội dung liên quan đến việc triển khai bảo hiểm vi mô tại Việt Nam trong tháng 3 và 4 năm 2013. Đây là những thông tin tham khảo hết sức bổ ích cho việc đề xuất giải pháp phát triển bảo hiểm vi mô tại Việt Nam trong thời gian tới.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành gửi phiếu khảo sát tới 43 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường (14 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ). Kết quả có 25/43 doanh nghiệp bảo hiểm gửi phiếu trả lời (đạt tỷ lệ 65%), trong đó có 11/14 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (đạt tỷ lệ 78,6%) và 14/29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (đạt tỷ lệ 48%).
Phần lớn doanh nghiệp bảo hiểm tham gia khảo sát nhất trí về sự cần thiết triển khai bảo hiểm vi mô tại Việt Nam trong giai đoạn 2012-2020 (24/25 doanh nghiệp bảo hiểm đạt 96%). Trong đó, có 17 doanh nghiệp bảo hiểm (chiếm tỷ trọng 68%) đề nghị có sự hỗ trợ của nhà nước trong quá trình triển khai. Kết quả này cho thấy sự quan tâm của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với loại hình bảo hiểm dành cho người thu nhập thấp nhưng cũng cho thấy mong muốn được Nhà nước hỗ trợ trong quá trình triển khai bảo hiểm vi mô.
Việc phát triển bảo hiểm vi mô sẽ gặp thách thức đáng kể do chính các doanh nghiệp bảo hiểm không muốn cung cấp các sản phẩm bảo hiểm vi mô vì họ phải thay đổi lại chiến lược kinh doanh, thay đổi sản phẩm theo hướng đơn giản và cắt giảm chi phí cho phù hợp với đối tượng khách hàng là người có thu nhập thấp. Do vậy, IAIS (Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế) đã khuyến nghị cần có những quy định pháp lý riêng để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm vi mô.
Trên cơ sở đó, bài Nghiên cứu- Trao đổi này giới thiệu các giải pháp mà nhóm đề tài của Bộ Tài chính đã chủ động đưa ra để thúc đẩy bảo hiểm vi mô phát triển tại Việt Nam, trong đó tập trung vào đề xuất xây dựng khung pháp lý đối với bảo hiểm vi mô cũng như các giải pháp khác để hỗ trợ công tác triển khai bảo hiểm vi mô.
1. Về các nội dung quy định trong khung pháp lý về bảo hiểm vi mô
1.1. Đối tượng tham gia sản phẩm bảo hiểm vi mô
Theo kinh nghiệm quốc tế, mức thu nhập trên đầu người là một trong những tiêu thức căn bản để xác định đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô. Căn cứ tiêu chuẩn hộ nghèo và cận nghèo ở khu vực nông thôn và khu vực thành thị cũng như kỳ vọng của các doanh nghiệp bảo hiểm về đối tượng khách hàng tiềm năng, nhóm nghiên cứu đề xuất đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô là những người có thu nhập tối đa 1.040.000 đồng/tháng (gấp 2 lần mức chuẩn cận nghèo khu vực nông thôn). Theo kết quả khảo sát, có 56% doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý với đề xuất này.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng xác định thêm đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô là những người làm việc trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, là thành viên các hội nghề nghiệp, hợp tác xã, hội nông dân, hội phụ nữ. Căn cứ vào những đối tượng như vậy có thể nghiên cứu phát triển sản phẩm bảo hiểm vi mô phù hợp, xác định kênh phân phối cũng như công tác tuyên truyền vận động tham gia bảo hiểm vi mô cho hiệu quả. Có trên 70% doanh nghiệp bảo hiểm nhất trí với đề xuất này.
1.2. Đối tượng cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô:
Có thể quy định đối tượng được phép cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô theo các hướng sau:
- Hướng 1 chỉ cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai nhằm đảm bảo sản phẩm bảo hiểm vi mô được thiết kế và triển khai một cách chuyên nghiệp và luôn tạo ra sự an tâm trong công tác quản lý giám sát. Các tổ chức tài chính vi mô, hội nghề nghiệp, tổ chức chính trị xã hội chỉ có thể làm đại lý bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Hướng này gặp phải khó khăn khi các doanh nghiệp bảo hiểm không có đủ động lực để bán bảo hiểm cho người có thu nhập thấp vì rủi ro kinh doanh cao và lợi nhuận thu được thấp. Ngay cả việc Nhà nước hỗ trợ về thuế, chi phí vận động tuyên truyền cũng không giúp doanh nghiệp bảo hiểm mặn mà với hoạt động bảo hiểm vi mô, thay vào đó họ sẽ vẫn tập trung vào mảng khách hàng có thu nhập khá trở lên. Trong trường hợp này theo kinh nghiệm của Ấn Độ, Nhà nước sẽ bắt buộc các doanh nghiệp bảo hiểm phải triển khai bảo hiểm vi mô ở mức độ nhất định. Nếu giám sát việc tuân thủ quy định này một cách chặt chẽ, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ buộc phải tìm đối tác tổ chức xã hội, tổ chức tương hỗ, hợp tác xã... để triển khai bảo hiểm vi mô. Tuy nhiên do không đạt mục tiêu lợi nhuận nên các doanh nghiệp bảo hiểm không thực sự tìm hiểu nhu cầu khách hàng, đưa ra sản phẩm bảo hiểm phù hợp, không tìm cách mở rộng phạm vi, đối tượng khách hàng để tăng doanh thu phí bảo hiểm.
- Hướng 2 ngoài việc cho phép doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm vi mô, tiến hành giảm nhẹ các yêu cầu về mức vốn pháp định, biên khả năng thanh toán, tiêu chuẩn người quản trị điều hành, chuyên gia tính toán để tạo điều kiện cho các tổ chức bảo hiểm tương hỗ, tổ chức TCVM đủ điều kiện cấp phép chuyên hoạt động bảo hiểm vi mô. Đối với một số tổ chức tương hỗ, tổ chức TCVM, hợp tác xã quy mô nhỏ đã và đang cung cấp bảo hiểm vi mô cho thành viên thì tiếp tục cho phép triển khai nhưng có lộ trình để nâng cao năng lực tài chính, trình độ chuyên môn tiến tới được cấp phép hoạt động. Đây là kinh nghiệm của Philipin. Việc quy định theo hướng này sẽ giúp hoạt động bảo hiểm vi mô phát triển nhanh, mọi người dân có thu nhập thấp đều có cơ hội tham gia bảo hiểm vi mô tuy nhiên công tác quản lý giám sát đối với hoạt động bảo hiểm vi mô cũng cần được chuyên sâu đảm bảo tính bền vững của các tổ chức cung cấp bảo hiểm vi mô dù đã được cấp phép hay chưa được cấp phép.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia khảo sát đều đồng ý về việc khuyến khích thành lập tổ chức bảo hiểm tương hỗ chuyên cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô. Trong đó, có 14/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị việc hạ thấp điều kiện vốn thành lập (xuống 10 tỷ đồng), có 5/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị hạ thấp tiêu chuẩn người quản trị điều hành, có 7/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị hạ thấp tiêu chuẩn về công nghệ thông tin, 8/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị hạ thấp tiêu chuẩn về đại lý đối với tổ chức bảo hiểm tương hỗ cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô.
1.3. Quy định về sản phẩm
1.3.1. Về loại hình sản phẩm
Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, theo kết quả khảo sát có 10/14 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị đối tượng sản phẩm của bảo hiểm vi mô phi nhân thọ là bảo hiểm nông nghiệp, 7/14 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị bảo hiểm vi mô phi nhân thọ là sản phẩm bảo hiểm tài sản và cháy nổ.
Đối với bảo hiểm nhân thọ vi mô, có 8/11 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm bảo hiểm tử kỳ, có 4/11 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm bảo hiểm tử kỳ có hoàn phí, 3/11 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm bảo hiểm tử kỳ dư nợ tín dụng. Chỉ có 1 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô hỗn hợp.
Đối với bảo hiểm sức khỏe vi mô, có 22/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm bảo hiểm tai nạn con người, 11/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm chăm sóc sức khỏe và 9/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị cung cấp sản phẩm bảo hiểm y tế.
Dựa trên kết quả khảo sát và kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu đề xuất quy định về loại hình sản phẩm bảo hiểm vi mô có đặc điểm đơn giản và đáp ứng được nhu cầu của người thu nhập thấp (các sản phẩm bảo hiểm vi mô tập trung vào bảo hiểm nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tử kỳ có hoàn phí, tử kỳ dư nợ tín dụng...). Ngoài ra, đề xuất quy định bắt buộc thành viên vay vốn phải mua bảo hiểm tín dụng vi mô (kinh nghiệm Ấn Độ) và cho phép trong hợp đồng bảo hiểm vi mô cung cấp quyền lợi cho cả bên mua bảo hiểm và vợ/chồng, con cái của họ.
1.3.2. Quy định phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
- Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước, quy định mức phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm tối đa trên cơ sở mức thu nhập hàng tháng của đối tượng người có thu nhập thấp. Theo kết quả khảo sát, mức phí bảo hiểm đề xuất ở mức tối đa 7000 đồng/tuần được 21/25 doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý. có 2 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đề xuất mức phí bảo hiểm tối thiểu là 10.000 đồng/tuần hoặc 35.000 đồng/tuần. Tuy nhiên theo nhóm đề tài quy định mức phí bảo hiểm quá cao sẽ không thể hiện được bản chất sản phẩm bảo hiểm vi mô dành cho người có thu nhập thấp. Vì vậy mức phí bảo hiểm tối đa 7000 đồng/tuần là phù hợp với khả năng tài chính của người dân nghèo đồng thời vẫn đáp ứng được yêu cầu về quy mô hợp đồng bảo hiểm của đại đa số doanh nghiệp bảo hiểm.
- Về số tiền bảo hiểm, kết quả khảo sát cho thấy có 8/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị số tiền bảo hiểm của sản phẩm là dưới 10 triệu đồng, 11/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị ở mức 10-20 triệu đồng. Các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại đề nghị ở mức cao hơn hoặc tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Theo nhóm đề tài việc quy định số tiền bảo hiểm cần tương ứng với giới hạn về mức phí bảo hiểm. Qua rà soát thực tiễn triển khai tại các doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức tương hỗ tại Việt Nam cũng như kết quả khảo sát, có thể thấy giới hạn tối đa đối với số tiền bảo hiểm nên ở mức 20 triệu đồng.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất quy định định kỳ thu phí của sản phẩm bảo hiểm vi mô là theo tuần hoặc tháng để phù hợp với đặc thù kênh phân phối. Theo kết quả khảo sát, có 1/25 DNBH đề nghị áp dụng thu phí theo tuần, còn lại các doanh nghiệp bảo hiểm đều đề nghị áp dụng phí bảo hiểm theo quý và nửa năm. Việc thu phí đều đặn hàng tuần có thể gây khó khăn cho việc quản lý phí đối với doanh nghiệp bảo hiểm thương mại tuy nhiên điều này có thể khắc phục khi hợp tác với các tổ chức tương hỗ, tổ chức xã hội, hợp tác xã... Các tổ chức này thường có lịch sinh hoạt thành viên hàng tuần nên hoàn toàn có thể thu phí bảo hiểm hàng tuần của thành viên giúp thành viên đỡ gặp khó khăn khi không đủ tiền đóng phí bảo hiểm.
1.3.3. Quy định về điều khoản sản phẩm
Theo kinh nghiệm của Philipin và Ấn Độ, các nước này đều có quy định về quy tắc, điều khoản sản phẩm bảo hiểm vi mô. Theo đó, quy tắc, điều khoản sản phẩm phải đơn giản, dễ hiểu, không gây nhầm lẫn cho khách hàng. Bên cạnh đó, có quy định về thời gian gia hạn đóng phí, thời gian tự do cân nhắc dài hơn so với sản phẩm thông thường và quy định về thời gian giải quyết bồi thường ngắn hơn để đảm bảo phù hợp với đặc thù của khách hàng là người có thu nhập thấp, ở vùng sâu, vùng xa. Mặc dù kết quả khảo sát cho thấy các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều đề nghị thời gian giải quyết quyền lợi bảo hiểm kéo dài đến 10 hoặc 15 ngày nhưng nhóm đề tài đề xuất thời gian tối đa giải quyết quyền lợi bảo hiểm tối đa từ 3 đến 5 ngày để giúp người nghèo sớm có tiền bảo hiểm khắc phục hậu quả do sự kiện bảo hiểm gây ra.
1.4. Quy định về kênh phân phối
Theo kết quả khảo sát, có 16/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị sử dụng hình thức phân phối theo mô hình đối tác-đại lý với tổ chức TCVM hoặc các tổ chức xã hội (hội nông dân, hợp tác xã, Hội LHPN...) để phân phối sản phẩm. Trong đó, đối tác phân phối hoặc các thành viên của đối tác sẽ là đại lý tổ chức hoặc đại lý cá nhân bán sản phẩm bảo hiểm vi mô. Điều kiện đào tạo đại lý sẽ được quy định ở mức thấp hơn so với đại lý thông thường cụ thể là sẽ giảm số giờ đào tạo cũng như xem xét giảm mức độ khó của đề thi đại lý bảo hiểm vi mô. Các doanh nghiệp bảo hiểm còn tương đối thận trọng nên chưa mạnh dạn ủy quyền cho đối tác trong việc thu phí bảo hiểm, thẩm định bồi thường và phân cấp chi trả quyền lợi bảo hiểm. Đây cũng là vấn đề cần được tháo gỡ việc triển khai bảo hiểm vi mô tiết kiệm chi phí và đảm bảo phục vụ khách hàng nhanh chóng nhất có thể.
1.5. Quy định một tỷ lệ tối thiểu về kết quả khai thác
Nếu áp dụng theo hướng 1 tại mục 1.2 về đối tượng cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô tương tự kinh nghiệm của Ấn Độ, Nhà nước cần bắt buộc doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm vi mô ở mức tối thiểu. Có thể đề xuất quy định 3-5% số lượng hợp đồng năm 1 là từ bảo hiểm vi mô (hiện tại số liệu này của Manulife – doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đứng thứ 3 thị trường là 22%), sau đó nâng dần tỷ lệ lên 15% khi triển khai đến năm thứ 10.
1.6. Quy định về bán kết hợp bảo hiểm vi mô nhân thọ và phi nhân thọ
Theo kinh nghiệm của Ấn Độ, có thể quy định cho phép bán kết hợp cả nhân thọ và phi nhân thọ trong một hợp đồng bảo hiểm vi mô, đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của người nghèo khi tham gia bảo hiểm. Với quy định này, cần có sự phối hợp triển khai giữa doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ trong quá trình triển khai. Ưu điểm của quy định này cho phép khách hàng dễ dàng tham gia sản phẩm bảo hiểm ở các doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, địa bàn tham gia cũng rộng hơn.
Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát, chỉ có 8/25 doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý với đề xuất này. Phần lớn doanh nghiệp bảo hiểm được hỏi đều đề nghị triển khai riêng rẽ sản phẩm bảo hiểm vi mô nhân thọ và vi mô phi nhân thọ. Có lẽ các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn đang lo lắng rủi ro đối với việc hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc thẩm định, quản lý hợp đồng và giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Đây là vấn đề cần được bàn bạc giải quyết thấu đáo và nên đứng trên quan điểm phục vụ khách hàng có thu nhập thấp một cách tốt nhất có thể.
2. Về việc tuyên truyền, vận động tham gia bảo hiểm vi mô
Theo kinh nghiệm của Philipin cần có sự quan tâm của các bộ ngành, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị xã hội để đẩy mạnh phong trào triển khai bảo hiểm vi mô. Chính phủ cần có chiến lược quốc gia về bảo hiểm vi mô và quy định lấy ngày hoặc tháng triển khai bảo hiểm vi mô để kêu gọi mọi tổ chức, cá nhân tích cực tham gia vì hoạt động bảo hiểm vi mô. Việc đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm vi mô qua các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động... là hết sức quan trọng. Ngoài ra cũng cần có sự tham gia tích cực của các phương tiện truyền thông đại chúng như báo, đài, tờ rời để tuyên truyền, giáo dục người thu nhập thấp về bảo hiểm vi mô.
3. Hỗ trợ về tài chính từ phía Nhà nước
Bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến phân khúc thị trường này do hiệu quả kinh doanh rất thấp trong khi đó rủi ro lại cao trong khi đó các tổ chức tương hỗ, TCVM cũng gặp khó khăn về tài chính. Để giải quyết được vấn đề này, cần xây dựng chính sách ưu đãi về thuế VAT, thuế TNDN, thuế TNCN đối với đại lý bảo hiểm vi mô. Ngoài ra Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ thêm các chi phí phục vụ các chương trình quốc gia tuyên truyền, phổ biến về bảo hiểm vi mô, hỗ trợ đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ địa phương trong triển khai bảo hiểm vi mô, hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực chuyên môn và tài chính của các tổ chức tương hỗ, TCVM đang triển khai bảo hiểm vi mô. Riêng bảo hiểm nông nghiệp là lĩnh vực có nhiều rủi ro thảm họa và rủi ro trục lợi bảo hiểm khó lường nên Nhà nước cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ phí bảo hiểm một cách hiệu quả và tăng quy mô tham gia bảo hiểm để lấy số đông bù số ít theo nguyên tắc bảo hiểm.
Những hỗ trợ nêu trên cũng phần nào đáp ứng được mong đợi của các doanh nghiệp bảo hiểm khi triển khai bảo hiểm vi mô khi kết quả khảo sát với 17/25 doanh nghiệp bảo hiểm đề xuất có sự hỗ trợ của nhà nước đối với triển khai bảo hiểm vi mô.